
Thủy sản “bứt tốc” trong bối cảnh bình thường mới
Trong đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ tư, lĩnh vực thủy sản nằm trong nhóm ngành nông nghiệp bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi dịch bệnh. Mới chỉ hơn 2 tháng thực hiện giãn cách xã hội đã có khoảng 70% nhà máy ở các tỉnh, thành phố phía Nam ngừng sản xuất và có hơn 300 nghìn lao động trực tiếp tại các nhà máy bị mất việc. Bên cạnh đó, vấn đề chi phí chế biến, sản xuất thủy sản tăng cao, chi cho y tế, xét nghiệm Covid-19, bảm đảm sức khỏe, chỗ ăn ở cho công nhân trở thành một “gánh nặng” đối với doanh nghiệp. Với những cơ sở duy trì được hoạt động theo mô hình “3 tại chỗ” thì chi phí sản xuất tăng khoảng 10% đến 15%. Đối với những nhà máy không sản xuất, nhưng vẫn phải đáp ứng các chi phí phòng chống dịch thì con số này lên đến 50%, trong khi dịch bệnh kéo dài đến tháng 9 và vẫn chưa có một nghiên cứu nào khẳng định bao giờ thì dịch bệnh sẽ kết thúc. Hệ quả dẫn đến xuất khẩu thủy sản những tháng giãn cách xã hội giảm sâu bởi không thể đáp ứng được các đơn hàng, dẫn đến nơi sản xuất ứ đọng, nơi tiêu thụ khan hàng.
Tuy nhiên, ngay sau khi thực hiện Nghị quyết 128 của Chính phủ, mở cửa kinh tế trong điều kiện bình thường mới và thích ứng an toàn với dịch bệnh, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã nhanh chóng bắt tay vào khôi phục sản xuất, đáp ứng các đơn hàng còn ứ đọng trong thời gian sản xuất cầm chừng thực hiện giãn cách xã hội. Theo số liệu thống kê cho thấy, trong 11 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu thủy sản đạt gần 8 tỉ USD, tăng gần 4% so với cùng kỳ năm 2020.
Tín hiệu tích cực nhất phải nhắc đến là xuất khẩu của hai tháng 10 và 11 liên tục tăng trưởng cao khi các biện pháp giãn cách được tháo gỡ. Cụ thể, trong tháng 10 xuất khẩu thủy sản sang Mỹ hồi phục mạnh nhất khi tăng 31%, EU tăng 9%, Hàn Quốc tăng 20%, Canada tăng 17%. Tổng cộng trong 10 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu thủy sản của cả nước đạt 7,1 tỉ USD, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước. Thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc là 3 thị trường xuất khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2021, chiếm 49,3% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản. Trong 10 tháng đầu năm 2021, giá trị xuất khẩu thủy sản tăng mạnh nhất tại Nga tăng 28,2%. Trong khi nhu cầu từ các thị trường nhập khẩu vẫn cao, mảng sản xuất chế biến thủy sản đang trên đà hồi phục.
Đến tháng 11/2021 sản lượng thủy sản ước tính đạt 761,8 nghìn tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính chung 11 tháng, sản lượng thủy sản ước đạt 7.908,2 nghìn tấn, tăng 0,5% so cùng kỳ năm trước. Giá trị xuất khẩu trong tháng 11/2021 ước đạt 880 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu thủy sản 11 tháng đầu năm 2021 ước đạt 7,95 tỉ USD, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm 2020. Đồng thời, ước giá trị nhập khẩu mặt hàng thủy sản tháng 11 năm 2021 đạt 155 triệu USD, đưa tổng giá trị thủy sản nhập khẩu 11 tháng đầu năm 2021 đạt 1,8 tỉ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2020.

Nhu cầu của phân khúc bán lẻ đối với các mặt hàng thủy sản tăng lên
Nhiều ý kiến cho rằng, những xu hướng mới đối với chuỗi cung ứng thủy sản có thể được coi như là cơ hội cho ngành thủy sản Việt Nam trong thời gian tới. Mặc dù nó làm giảm nhu cầu tiêu thụ thủy sản trong giai đoạn trước mắt, nhưng lại làm gia tăng xu hướng mua bán online và thúc đẩy bán lẻ, do đó, nhu cầu của phân khúc bán lẻ tại kênh siêu thị, các dạng sản phẩm tiện lợi, ăn liền, chế biến sẵn như đồ hộp, hàng khô, bữa ăn tiện lợi tăng lên. Đồng thời, người tiêu dùng ngày càng quan tâm tính minh bạch, truy xuất nguồn gốc, tính bền vững, trách nhiệm xã hội, trách nhiệm môi trường của chuỗi sản xuất sản phẩm.
Theo đó, yếu tố và xu hướng chính sẽ chi phối sự phát triển thủy sản Việt Nam 5 năm tới bao gồm: Một là, nguồn nguyên liệu cho xuất khẩu đa dạng được dự kiến sẽ tiếp tục là thế mạnh của Việt Nam; Hai là, xu hướng gia tăng nhập khẩu nguyên liệu từ các nước để sản xuất xuất khẩu và gia công xuất khẩu, tận dụng tối đa năng lực chế biến và đảm bảo “nguồn cung” ổn định, chất lượng trên thị trường quốc tế; Ba là, nhu cầu tiêu thụ tại thị trường nội địa gia tăng, dự kiến chiếm khoảng 20% doanh số; Bốn là, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, xuất khẩu như, cầu, cảng, giao thông, kho lạnh,… sẽ có xu hướng được đầu tư, cải tạo nhiều hơn từ nguồn ngân sách và cả xã hội hoá, tư nhân, tạo tác động tích cực đến sản xuất, xuất khẩu của ngành; Năm là, các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương cùng với hoạt động xúc tiến thương mại sẽ là những yếu tố tích cực tác động xu hướng phát triển của thủy sản Việt Nam.
Tuy nhiên, giá thành sản xuất cao các biến động thị trường về nhu cầu, quy định, chính sách thuế, rào cản và xu thế đòi hỏi chứng nhận bền vững ngày càng cao sẽ là những thách thức mà cộng đồng doanh nghiệp thủy sản sẽ phải đương đầu để vượt qua với nhiều chi phí hơn và khó khăn hơn. Theo đó, để ngành thủy sản phát triển bền vững thích ứng trong điều kiện bình thường mới trước hết, cần gỡ bỏ những rào cản “nút thắt” về vốn tín dụng cần đảm bảo mọi doanh nghiệp tiếp cận được dễ dàng để có khả năng phục hồi sản xuất nhanh; Chú trọng chế biến, bảo quản để linh hoạt thích ứng với bối cảnh dịch bệnh; Rà soát kỹ lưỡng tổ chức sản xuất các sản phẩm nông lâm thủy sản có tính chất mùa vụ trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp; Hỗ trợ chính sách thuế, tín dụng cho khu vực sản xuất, chế biến bảo quản và xuất khẩu nông sản; Giải quyết khó khăn, thuận lợi hóa thông quan, hạ tầng logistic. Tăng cường quản lý nhà nước về thương mại, quản lý thị trường, lưu thông, cung ứng hàng hóa; Thúc đẩy toàn diện tiêu thụ trong nước.
Trong “Đề án phát triển ngành chế biến thủy sản giai đoạn 2021-2030” đã đưa ra quan điểm và định hướng sớm đưa Việt Nam trở thành Trung tâm chế biến thủy sản toàn cầu. Theo đó, cần tập trung phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản thủy sản quy mô hàng hóa lớn, hiện đại, an toàn, hiệu quả và bền vững; là trung tâm và động lực cho phát triển chuỗi giá trị thủy sản; gắn với kế hoạch thực hiện cơ cấu lại ngành Nông nghiệp và chiến lược phát triển ngành thủy sản; nâng cao năng lực cạnh tranh và chủ động hội nhập quốc tế.
Cùng với đó, phát huy tối đa lợi thế nguồn nguyên liệu trong nước, hài hòa với việc mở rộng thị trường nhập khẩu nguyên liệu hợp pháp. Đầu tư, áp dụng khoa học công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là khâu đột phá trong phát triển chế biến thủy sản. Đồng thời, hình thành các tập đoàn, công ty chế biến thủy sản lớn có tiềm lực kinh tế và trình độ quản lý ngang tầm thế giới. Đa dạng hóa sản phẩm, tăng tỷ trọng sản phẩm giá trị gia tăng; đẩy mạnh chế biến các sản phẩm chủ lực, sản phẩm có thương hiệu và sản phẩm chế biến từ phụ phẩm./.
Nguồn: thuongtruong.com.vn