
PV. Năm qua được đánh giá là một năm sôi động của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, ông đánh giá gì về thị trường này?
Ông Đinh Trọng Thịnh: Trước hết, như chúng ta đã biết hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu sử dụng nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng phục vụ cho phát triển của doanh nghiệp “như một thói quen” và điều này được đánh giá là không tốt. Chính vì vậy, Chính phủ rất mong muốn phát triển thị trường chứng khoán nói chung, cũng như thị trường trái phiếu nói riêng để giúp cho các doanh nghiệp có thêm kênh huy động vốn phong phú và giảm bớt phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Chính phủ mong muốn thị trường trái phiếu có được tốc độ phát triển tốt và đây cũng là mong muốn của các nhà quản lý, doanh nghiệp, tổ chức.
Có thể nói, trong năm 2020 - 2021 thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam có sự phát triển cực mạnh và thị trường này đã vượt ra tất cả mọi dự đoán của các chuyên gia kinh tế, cũng như của các nhà quản lý và trở thành một kênh huy động tương đối tốt với tốc độ tăng trưởng từ 20% đến 30% trong năm 2020 - 2021. Nhưng chúng ta cũng biết rằng thị trường trái phiếu khi phát triển thì cũng có rất nhiều vấn đề bộ lộ và phát sinh. Đặc biệt, các nhà đầu tư chưa quen với trái phiếu của doanh nghiệp và có rất nhiều doanh nghiệp thấy rằng đây là một kênh không bị giám sát quá chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước và vì thế nên họ đã đẩy mạnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
PV. Ông có đánh giá gì về việc Chính phủ và Bộ Tài chính liên tục có những cảnh báo và gần đây là Dự thảo Thông tư về tổ chức giao dịch trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ nhằm cảnh báo những rủi ro và “siết chặt” quản lý hơn thị trường trái phiếu doanh nghiệp?
Ông Đinh Trọng Thịnh: Như chúng ta đã biết, thị trường trái phiếu là một kênh huy động vốn mà Chính phủ mong muốn. Tuy nhiên, vừa qua khi phát hành mạnh mẽ đã có rất nhiều các doanh nghiệp vốn có rất ít nhưng lại thực hiện phát hành trái phiếu để huy động được vốn, thậm chí có những doanh nghiệp phát hành trái phiếu tăng lên gấp 20 hoặc 30 lần vốn tự có, cũng như nhiều doanh nghiệp phát hành trái phiếu “3 không” tức là không có xếp hạng tín nhiệm, không có tài sản bảo đảm và cũng không có cơ quan bảo lãnh.
Từ đó, phát hành trái phiếu một cách tự do, vì thực ra, về mặt nguyên tắc, các cơ quan quản lý nhà nước không quản lý chặt trái phiếu doanh nghiệp. Cho nên có những doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp có cái lãi suất cực kỳ cao đến 18% đến 20% và các nhà đầu tư thì cứ lao vào như “thiêu thân”, bên cạnh đó, một số các doanh nghiệp phát hành trái phiếu lại có các ngân hàng đứng ra bảo lãnh phát hành. Khi không bán được thì ngân hàng sẽ phải mua hết tất cả rồi sau đó bán lại ra thị trường cho các nhà đầu tư. Nhiều nhà đầu tư lại không biết và nghĩ rằng trái phiếu đã có ngân hàng bảo lãnh nhưng thực tế là không, bởi ngân hàng chỉ bảo lãnh cho việc phát hành. Theo đó, ngân hàng bảo đảm với doanh nghiệp nếu như doanh nghiệp phát hành không bán được cho các nhà đầu tư thì ngân hàng sẽ mua cho doanh nghiệp sau đó sẽ tiến hành bán dần, còn trách nhiệm cuối cùng vẫn là của doanh nghiệp.
Chính vì lẽ đó mới dẫn đến nguy cơ doanh nghiệp sẽ không trả được trả gốc cũng như lãi trái phiếu cho các nhà đầu tư và khi chỉ có một vài doanh nghiệp thuộc diện này thì có thể vẫn chưa gây ra ảnh hưởng lớn lắm, nhưng nếu có một loạt các doanh nghiệp không trả được gốc và lãi cho các nhà đầu tư, thì lập tức sẽ ảnh hưởng đến thị trường trái phiếu. Nếu như các doanh nghiệp vỡ nợ không trả được thì lập tức có rất nhiều các nhà đầu tư sẵn sàng đòi lại tiền của mình và điều này sẽ không chỉ gây bất ổn cho thị trường trái phiếu mà còn gây bất ổn cho cả thị trường tài chính tiền tệ. Từ đó, có thể làm cho hệ thống tài chính ngân hàng của chúng ta sẽ rất căng thẳng về vốn và thậm chí có thể sụp đổ.
Cho nên, việc liên tục cảnh báo là vẫn chưa đủ để cảnh tỉnh các nhà đầu tư và các doanh nghiệp phát hành. Theo đó, Bộ Tài chính cũng đã có nghiên cứu để chuẩn bị sửa đổi chính sách để từ đó siết chặt hơn vấn đề quản lý và yêu cầu phải có các điều kiện để bảo đảm việc phát hành trái phiếu ra thị trường nhằm đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư, cũng như tránh các khả năng có thể xảy ra vỡ nợ trước hành vi thiếu trách nhiệm của đơn vị phát hành.
Theo nghiên cứu thì có khoảng 60% trái phiếu doanh nghiệp là do các ngân hàng và các công ty chứng khoán đứng ra mua. Như vậy, không loại trừ khả năng ngân hàng mua trái phiếu của những doanh nghiệp như là một biện pháp giúp doanh nghiệp có tiền trả nợ vay trước đây, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tái cấu trúc nợ. Nếu mà như vậy thì “cực kỳ nguy hiểm”, đòi hỏi Bộ Tài chính yêu cầu Ngân hàng Nhà nước kiểm tra các ngân hàng thương mại để làm trong sạch các khoản nợ mua trái phiếu của các ngân hàng thương mại nhằm chuyển hóa nợ vay trước đây bằng trái phiếu.
Đặc biệt là ngân hàng đã có văn bản yêu cầu các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, không được mua trái phiếu của những doanh nghiệp có khả năng rủi ro cao.

PV. Vậy thưa ông, nó có ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế vĩ mô? Đồng thời, mong ông đưa ra dự báo về thị trường này trong tương lai?
Ông Đinh Trọng Thịnh: Trong tình hình hiện nay, việc vay vốn của các ngân hàng thương mại là điều hết sức khó khăn, đặc biệt là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bởi vì, khi vay các ngân hàng thương mại các doanh nghiệp phải bảo đảm các điều kiện để được vay như: phải không có các khoản nợ xấu của tại các tổ chức tín dụng, hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lãi, có tài sản đảm bảo cho khoản nợ vay. Như vậy thì các doanh nghiệp sẽ rất khó để vay được vốn từ các ngân hàng.
Trước những khó khăn đó, cách đơn giản nhất và tốt nhất là doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Không cần tài sản bảo đảm nhưng vẫn có thể phát hành và huy động vốn được, được đánh giá là rất tiềm năng và huy động vốn nhanh nhất hiện nay.
Tất nhiên, vì sao doanh nghiệp vẫn phát hành khi mà chính phủ và bộ đã có nhiều cảnh báo các trái phiếu này, bởi vì trên thực tế là không cấm doanh nghiệp phát hành và không có cơ quan quản lý nào quản lý trái phiếu đó cả, mà thể hiện mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp phát hành với các nhà đầu tư. Theo đó, mặc dù Bộ Tài chính vẫn cảnh báo nhưng là cảnh báo đối với các nhà đầu tư chứ không cảnh báo đối với doanh nghiệp theo đó doanh nghiệp vẫn phát hành còn các nhà đầu tư không mua lại là vấn đề khác.
Trong thời gian tới, do cảnh báo rất nhiều lần của Ủy ban Chứng khoán nhà nước cũng như Bộ Tài chính và đặc biệt là có những văn bản pháp luật mới về việc quản lý phát hành trái phiếu doanh nghiệp thì thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ có thể không còn sôi động như hiện nay nữa, vì nó đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định mới được phát hành, các yêu cầu về quản lý cao hơn. Nhưng về mặt chất lượng thì trong thời gian tới, trái phiếu doanh nghiệp sẽ được vận hành tốt hơn và đây là một trong những điều mà chúng ta mong muốn để từ đó đảm bảo cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển một cách lành mạnh.
PV. Xin cảm ơn ông./.
Nguồn: thuongtruong.com.vn