Tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt 5,5% trong năm 2022
Mới đây, Ngân hàng Thế giới đã công bố báo cáo Điểm lại cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam ấn bản tháng 1/2022. Báo cáo có tiêu đề: "Không còn thời gian để lãng phí: Những thách thức và cơ hội đối với phát triển thương mại xanh tại Việt Nam”.
Tại buổi công bố, tóm tắt về tình hình kinh tế năm 2021, bà Dorsati Madani - Chuyên gia kinh tế cao cấp của WB tại Việt Nam, cho biết, Việt Nam chịu cú sốc kinh tế rất nghiêm trọng và tốc độ tăng trưởng kinh tế. GDP cả năm chỉ đạt 2,58%, thậm chí còn thấp hơn tốc độ tăng trưởng năm 2020. Tuy nhiên, nền kinh tế đang phục hồi và tăng trưởng tương đối mạnh mẽ trong quý IV.
Bên cạnh đó, tình hình kinh tế đối ngoại vẫn tích cực, tuy thặng dư cán cân vãng lai đã giảm. Điều này dễ nhận thấy bởi dự trữ ngoại hối đã tăng lên đến 108 tỷ USD. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ, phản ánh các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá Việt Nam là điểm đến đầu tư tiềm năng…

Về triển vọng kinh tế Việt Nam, WB đánh giá, tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam vẫn mạnh mẽ trong năm 2022 và 2023. Cụ thể, năm 2022, tăng trưởng GDP được dự báo ở mức 5,5%. Dự báo này dựa trên giả định Covid-19 sẽ được kiểm soát ở trong và ngoài nước, sẽ không xảy ra đợt bùng phát dịch Covid-19 lớn nữa tại Việt Nam. Do đó, WB hy vọng nền kinh tế sẽ phục hồi tương đối mạnh mẽ, bao gồm cả cầu trong nước dù sẽ mất cả năm để phục hồi.
Theo dự đoán của WB, nhu cầu của khu vực kinh tế đối ngoại sẽ tương đối ổn định trong năm 2022, vì những đối tác thương mại chính của Việt Nam là Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và Trung Quốc được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng tương đối tốt trong năm này.
Lạm phát được dự báo sẽ ở mức khoảng 3,5 - 3,6%, vẫn dưới mức trần 4%, nhưng sẽ cao hơn một chút so với năm 2021 do nhu cầu trong nước phục hồi. Cán cân vãng lai sẽ được cải thiện và tăng trở lại, dự kiến ở mức khoảng 1,7% GDP và thâm hụt tài khóa sẽ khoảng 4,4% GDP.
“Chúng tôi cho rằng, nợ công vẫn sẽ bền vững. Thâm hụt ngân sách và nợ công được kỳ vọng sẽ vẫn vững bền, với tỷ lệ nợ trên GDP dự kiến là 58,8%, thấp hơn nhiều so với mức trần theo quy định” – bà Dorsati nhấn mạnh.
Đối với triển vọng trong trung hạn bà Dorsati cho biết, WB kỳ vọng về việc nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển mạnh và tăng trưởng ở mức 6,5% trong năm 2023. Thâm hụt ngân sách trong trung hạn cũng được kỳ vọng sẽ giảm, vì Chính phủ sẽ quay lại các giải pháp khắc phục thâm hụt ngân sách và nợ công cũng sẽ giảm nhẹ khi Chính phủ tăng cường củng cố thu chi ngân sách nhà nước.
Cần xanh hóa thương mại để tạo ra nhiều cơ hội phát triển
Ngoài đánh giá về cơ hội phát triển của kinh tế Việt Nam trong năm 2022, báo cáo cũng đi sâu vào phân tích xu hướng xanh hóa của thương mại Việt Nam. Theo đó, WB đánh giá, thương mại là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong 2 thập kỷ qua, nhưng cũng là ngành có cường độ phát thải các-bon cao, chiếm một phần ba tổng lượng phát thải khí nhà kính của cả nước và gây nhiều ô nhiễm.
Theo WB, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện giảm phát thải các-bon trong các hoạt động liên quan đến thương mại. Ngay phần mở đầu báo cáo, Ngân hàng Thế giới đã dẫn lại cam kết của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Minh Chính tại Hội nghị Biến đổi Khí hậu Liên hợp quốc lần thứ 26 (COP26) được tổ chức vào đầu tháng 11 năm 2021 tại Glasgow, Scotland: “Việt Nam sẽ tham gia giải pháp về biến đổi khí hậu toàn cầu. Việt Nam đặt mục tiêu nâng tỷ lệ năng lượng sạch trong tổng cung năng lượng sơ cấp lên ít nhất 20% vào năm 2030 và 30% vào năm 2045, đồng thời cam kết từng bước loại bỏ sản xuất điện bằng than và đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050”.
Báo cáo của WB cũng đánh giá, thương mại có thể là một phần quan trọng trong giải pháp cho vấn đề biến đổi khí hậu mà Việt Nam đang trải qua và sẽ cần được xử lý trong những năm tới. Thương mại xanh - hay thương mại sạch hơn, thương mại hàng hóa môi trường, hàng hóa thân thiện với môi trường - có thể giúp Việt Nam đạt được các cam kết về khí hậu và tham vọng trở thành một nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2045 như đã vạch ra trong Chiến lược Phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2021-2030, báo cáo nhắc lại.

WB cho biết, Việt Nam đã được hưởng lợi nhiều từ mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu trong 20 năm qua, nhưng mô hình này cũng để lại dấu chân môi trường quan trọng. Gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007 và tham gia 13 hiệp định thương mại tự do và khu vực, Việt Nam đã thành công trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua mở rộng tiếp cận thị trường và cắt giảm thuế quan. Lưu lượng thương mại đã tăng theo cấp số nhân; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam hiện lên đến 106,6% GDP.
Tuy nhiên, khu vực sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn có dấu chân các-bon đáng kể và thâm dụng tài nguyên, góp phần làm gia tăng thiệt hại về môi trường và suy kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh và lưu lượng thương mại của Việt Nam do làm tăng chi phí sản xuất và vận tải.
Do đó, theo WB, xanh hóa thương mại hàng hóa do đó được cho là một ưu tiên hàng đầu vì sẽ mang lại rất nhiều cơ hội cho Việt Nam:
Thứ nhất, điều này có thể giúp giảm dấu chân các-bon hoặc dấu chân môi trường của các ngành xuất khẩu và nhập khẩu, qua đó đóng góp vào công cuộc triển khai thực hiện cách tiếp cận phát triển xanh, bao trùm và có khả năng chống chịu, giúp Việt Nam hoàn thành mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
Thứ hai, xanh hóa thương mại hàng hóa có thể khuyến khích các ngành kinh tế đang tồn tại trang bị công nghệ xanh và duy trì năng lực cạnh tranh trong thế giới các-bon thấp của tương lai.
Thứ ba, xanh hóa thương mại tạo cơ hội mới để giao thương các hàng hóa và dịch vụ môi trường.
Cuối cùng, xanh hóa thương mại được kỳ vọng sẽ là động lực tiềm năng giúp tạo thêm việc làm mới khi các ngành đang tồn tại phải trang bị các công nghệ mới và các doanh nghiệp sẽ tận dụng cơ hội với hàng hóa và dịch vụ môi trường mới.
Ngoài ra, WB cũng khuyến nghị, Chính phủ hành động trên 3 lĩnh vực: tạo thuận lợi cho thương mại hàng hóa và dịch vụ xanh, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài xanh, và phát triển các khu công nghiệp có khả năng chống chịu tốt hơn và không phát thải carbon.
Nội dung của báo cáo cũng đặt ra giả thuyết, dịch COVID-19 sẽ được kiểm soát trong và ngoài nước thì khu vực dịch vụ của Việt Nam sẽ dần phục hồi khi người tiêu dùng và nhà đầu tư lấy lại được niềm tin.
Song song đó, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo sẽ được hưởng lợi nhờ nhu cầu ổn định từ Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu (EU) và Trung Quốc. Thâm hụt ngân sách và nợ công của Việt Nam cũng được kỳ vọng sẽ giữ vững, với tỷ lệ nợ trên GDP dự kiến là 58,8%, thấp hơn nhiều so với mức trần theo quy định.
Tuy nhiên, cũng theo báo cáo của WB, triển vọng này vẫn ẩn chứa nhiều rủi ro vì diễn biến của đại dịch vẫn chưa rõ ràng. Sự bùng phát của các biến thể mới có thể dẫn đến việc phải tái áp đặt các biện pháp giãn cách xã hội, ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế. Nhu cầu trong nước yếu hơn kỳ vọng có thể ảnh hưởng đến quá trình phục hồi của Việt Nam.
Nguồn: thuongtruong.com.vn