Cụ thể, trong tuần qua giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục lao dốc khi gạo 5% tấm và 25% tấm giảm 5 USD/tấn so với đầu tuần. Hiện giá gạo 5% tấm ở mức 393 USD/tấn; gạo 25% tấm 378 USD/tấn, gạo 100% tấm 383 USD/tấn.
Trong khi đó, giá gạo Thái Lan vẫn trụ vững ở mức cao nhất thế giới. Cụ thể, giá gạo 5% tấm và 25% tấm chốt tuần đồng loạt tăng 2 USD/tấn so với tuần trước và đứng ở mức 418 USD/tấn và 397 USD/tấn.
Ấn Độ vẫn là thị trường đứng thứ 3 khi không xuất hiện sự biến động đáng kể. Giá gạo 5% tấm và 25% của Ấn Độ giữ nguyên mức 343 USD/tấn và 328 USD/tấn.

Tại thị trường trong nước, giá lúa gạo tại ĐBSCL lại có xu hướng tăng trong tuần qua. Cụ thể, tại An Giang, lúa Đài thơm 8 đang được thương lái thu mua tại ruộng với mức giá 5.800 - 6.000 đồng/kg; lúa OM 18 5.800 - 6.000 đồng/kg; Nàng hoa 9 duy trì ở mức 5.600 - 5.800 đồng/kg; IR 504 ở mức 5.300 - 5.450 đồng/kg; lúa OM 5451 ở mức 5.500 - 5.600 đồng/kg; lúa IR 504 khô duy trì ở mức 6.500 đồng/kg.
Với mặt hàng lúa nếp, nếp An Giang tươi 5.900 - 6.000 đồng/kg, nếp tươi Long An 6.200 - 6.400 đồng/kg; nếp An Giang khô 7.500 - 7.600 đồng/kg; nếp Long An khô 7.700 đồng/kg.
Với mặt hàng gạo, giá gạo nguyên liệu duy trì ổn định sau phiên điều chỉnh tăng. Hiện giá gạo nguyên liệu ở mức 8.150 - 8.250 đồng/kg. Giá gạo thành phẩm tiếp tục duy trì ổn định ở mức 8.650 - 8.750 đồng/kg. Với mặt hàng phụ phẩm, giá ổn định. Hiện giá tấm IR 504 đứng ở mức 8.500 - 8.600 đồng/kg; cám khô 8.500 - 8.550 đồng/kg.
Tại chợ lẻ, giá gạo thường 11.500 đồng/kg - 12.500 đồng/kg; gạo thơm Jasmine 15.000 - 16.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 14.000 đồng/kg; nếp ruột 14.000 - 15.000 đồng/kg; Gạo Nàng Nhen 20.000 đồng/kg; Gạo thơm thái hạt dài 18.000 - 19.000 đồng/kg; Gạo Hương Lài 19.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng 14.000 đồng/kg; Nàng Hoa 17.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 20.000 đồng/kg; Cám 7.000 - 8.000 đồng/kg.
Theo thống kê sơ bộ từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu gạo tháng 7/2022 đạt 582.635 tấn, trị giá 285,285 triệu USD; so với tháng trước giảm 19,8% về lượng và giảm 19,5% về kim ngạch. Lũy kế 7 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo đạt 4.067.001 tấn, trị giá gần 2 tỷ USD, so với 7 tháng đầu năm 2021 tăng 17,3% về lượng và tăng 6% về kim ngạch.
Các thị trường xuất khẩu gạo top đầu của Việt Nam 7 tháng đầu năm nay gồm Philippines, Bờ Biển Ngà và Trung Quốc.
Tháng 7/2022, xuất khẩu gạo sang thị trường Philippines đạt 354.279 tấn, trị giá 165,810 triệu USD, so với tháng 7/2021 tăng gần gấp 2 lần về lượng và tăng 1,93 lần về kim ngạch. Cộng dồn 7 tháng, xuất khẩu gạo sang thị trường này đạt 1.978.849 tấn, trị giá 924,875 triệu USD, so với cùng kỳ năm ngoái tăng 55,72% về lượng và tăng 38,92% về kim ngạch.
Theo ông Đỗ Hà Nam - Phó chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Intimex Group, 7 tháng đầu năm xuất khẩu gạo sang Philippines tăng mạnh vì họ lo ngại Ấn Độ dừng xuất khẩu gạo nên đẩy mạnh mua gạo từ Việt Nam. Tuy lượng gạo xuất khẩu tăng mạnh nhưng kim ngạch tăng không tương xứng, do thương nhân ép giá và tính ra giá gạo xuất khẩu sang Philippines giảm chứ không tăng so với cùng kỳ năm 2021.
Cũng theo chuyên gia này, hiện người dân Philippines rất ưa chuộng gạo Đài Thơm 8 (DT8) của Việt Nam, vì chất lượng ngon, giá thành hợp lý nên cạnh tranh tốt và quan trọng là chỉ có Việt Nam mới sản xuất được DT8 nên chiếm ưu thế và giữ thị phần ổn định, dù Thái Lan "rất thèm muốn" nhưng không thể cạnh tranh được với Việt Nam gạo DT8 ở thị trường này.
Đứng thứ hai trong top thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam 7 tháng đầu năm nay là Bờ Biển Ngà, với lượng gạo xuất khẩu tháng 7/2022 đạt 74.029 tấn, trị giá 35,636 triệu USD, so với tháng 7/2021 tăng 17,52% về lượng và tăng 10,14% về kim ngạch. Cộng dồn 7 tháng đạt 396.759 tấn, trị giá 177,702 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước tăng 48,29% về lượng và tăng 30,17% về kim ngạch.
Hiện tại, các doanh nghiệp đang tận dụng tối đa việc nhu cầu tăng cao từ thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu. Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất thương mại Phước Thành IV (tỉnh Vĩnh Long) Nguyễn Văn Thành cho biết, nhu cầu nhập khẩu gạo tại các thị trường vẫn ở mức cao, đặc biệt là thị trường Philippines và Trung Quốc. Gạo Việt Nam đang mở rộng tới nhiều thị trường nên các doanh nghiệp cần tận dụng lợi thế này để gia tăng sản lượng xuất khẩu.
Với mục tiêu năm 2022 xuất khẩu 6,3 triệu tấn gạo, trị giá 3,3 tỷ USD, nhiều chuyên gia nông nghiệp cho rằng, xuất khẩu gạo hoàn toàn có thể "cán đích", thậm chí vượt kế hoạch Bộ NN&PTNT đề ra. Để làm được việc đó, các doanh nghiệp cần khai thác triệt để lợi thế về giá, về nhu cầu thị trường và nhóm thị trường.
Thanh Phong
Nguồn: thuongtruong.com.vn