Khó khăn bủa vây ngành gạo
Sự bùng phát mạnh của dịch Covid-19 cùng với việc áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội nhằm kiểm soát tốc độ lây lan của dịch bệnh tại nhiều tỉnh, thành phố như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và 16 tỉnh, thành phía Nam đã ảnh hưởng tới lưu thông hàng hóa, kéo theo sự gián đoạn của các chuỗi cung ứng và tác động tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Theo dữ liệu phân tích, thống kê của Bộ NN&PTNT, trong 7 tháng đầu năm, mặc dù giá gạo bình quân tăng khoảng 53,5 USD/tấn (lên mức 540,68 USD/tấn); song xuất khẩu gạo của Việt Nam chỉ đạt khoảng 3,5 triệu tấn với giá trị khoảng 1,9 tỷ USD ( giảm 12,7% về lượng, và 3,1% về giá trị). Nhiều đối tác nhập khẩu yêu cầu mua hàng chất lượng cao hơn nhưng giá thấp hơn nên nhiều doanh nghiệp lúa gạo khó có thể tiếp tục duy trì doanh thu, thị phần ở thị trường này.

Tính đến cuối tháng 8/2021, nhiều doanh nghiệp Việt gặp khó tại các thị trường nhập khẩu gạo lớn như Philippines, Trung Quốc, Bờ Biển Ngà, Ghana, Singapore, Cuba… Một số doanh nghiệp xuất khẩu gạo phản ánh rằng, trong quý II/2021, nhiều đối tác nhập khẩu cho biết họ phải đối mặt với khó khăn về tài chính do dịch bệnh Covid-19, trong khi chi phí logistic, chi phí vận chuyển... tăng đáng kể. Nhiều đối tác đã chủ động đề nghị được giảm mua, hủy hoặc hoãn các đơn hàng đã ký hoặc sắp sửa ký.
Trao đổi với PV Thương Trường, đại diện các doanh nghiệp xuất khẩu gạo đều bày tỏ lo lắng khi giá gạo giảm mạnh. Nhiều nguyên nhân đã được các doanh nghiệp chỉ ra đồng thời hàng loạt giải pháp để gỡ khó cũng được chia sẻ.
Ông Lê Anh Tuấn Phó Tổng Giám đốc Phụ trách xuất khẩu, Tổng công ty Thương mại Hà Nội (HAPRO) cho hay: “Hapro đã đầu tư nhà máy xay xát và chế biến gạo tại Đồng Tháp. Sản phẩm Gạo Hapro Đồng Tháp đã được xuất khẩu tới hơn 20 nước trên thế giới Philliines, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, một số nước khu vực Trung Đông…"
trong 7 tháng đầu năm, mặc dù giá gạo bình quân tăng khoảng 53,5 USD/tấn (lên mức 540,68 USD/tấn); song xuất khẩu gạo của Việt Nam chỉ đạt khoảng 3,5 triệu tấn với giá trị khoảng 1,9 tỷ USD ( giảm 12,7% về lượng, và 3,1% về giá trị).
Đại diện Hapro cũng cho biết, giá gạo xuất khẩu đã giảm mạnh xuống còn 380 - 390 USD/tấn (FOB) với gạo 5% tấm, giảm trên 100 USD/tấn – là mức giảm cao nhất và cũng là mức giá thấp nhất trong vòng một năm rưỡi trở lại đây. Nguyên nhân giá gạo xuất khẩu sụt giảm là do tác động của đại dịch COVID-19 nên nhu cầu thấp, chi phí vận chuyển tăng cao, hạn chế khả năng giao hàng của doanh nghiệp.
Thêm vào đó là quy định xét nghiệm Covid-19 tại các địa phương khác nhau đối với các đơn vị vận chuyển nội địa đường bộ và đường thủy. Việc này khiến doanh nghiệp tốn thêm thời gian, chi phí. Do vậy, sẽ dẫn tới tăng chi phí xuất khẩu, giá thành sản phẩm. Hơn nữa, sẽ ảnh hưởng đến năng suất, hiệu quả của việc vận chuyển gạo từ cơ sở cung ứng – nhà máy – cảng biển phục vụ hoạt động xuất khẩu.
Cùng chia sẻ về vấn đề trên, ông Phạm Thái Bình, Tổng Giám đốc CTCP Nông nghiệp công nghệ cao Trung An cho hay, một số công ty, nhà máy rơi vào tình trạng ngừng sản xuất, đóng cửa tạm thời… từ đó làm đứt gãy chuỗi cung ứng, gia tăng chi phí bán hàng. Trong đó, cước vận chuyển quốc tế tăng gấp 2,3 lần đối với các thị trường châu Á và gấp 3 lần đối với thị trường châu Âu.
Theo đó, chi phí dịch vụ logistics của Việt Nam tương đương 20,9% GDP, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực, cao gần gấp 2 lần so với các nước phát triển và cao hơn mức bình quân toàn cầu là 14%, chi phí vận tải tương đương 30 - 40% giá thành sản phẩm, trong khi tỷ lệ này ở các quốc gia khác chỉ khoảng 15%.
Các yếu tố làm tăng chi phí logistics bao gồm: Chi phí vận chuyển cao, các phụ phí cao do các hãng vận chuyển nước ngoài áp vào cho chủ hàng, hạn chế về cảng và cơ sở hạ tầng, chi phí về kiểm tra chuyên ngành. Ngoài chi phí vận tải, các loại phí kiểm tra chuyên ngành khá cao như: Phí giám định, kiểm tra vi sinh, phí giám sát, lưu container, lưu bãi từ đó tăng chi phí logistics…
Hiến kế gỡ khó xuất khẩu gạo
Thời gian tới, xuất khẩu gạo Việt sẽ chịu nhiều áp lực cạnh tranh từ các nước như Thái Lan, Ấn Độ, Myanmar… khi thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất là Philippines xóa bỏ chênh lệch mức thuế giữa ASEAN và các nước ngoài ASEAN. Cụ thể, Chính phủ nước này đã điều chỉnh giảm mức thuế MFN (Most Favored Nation – có áp dụng cho Ấn Độ) từ 40% trong hạn ngạch và 50% ngoài hạn ngạch xuống 35% - bằng mức thuế áp dụng với các quốc gia thuộc ASEAN. Việc Philippin giảm thuế quan đối với gạo được cho là sẽ có lợi cho các nước như Ấn Độ và Pakistan vì các nước này có thể đưa ra mức giá cạnh tranh hơn.
Để khắc phục những khó khăn, ông Lê Anh Tuấn Phó Tổng Giám đốc Phụ trách xuất khẩu, Tổng công ty Thương mại Hà Nội (HAPRO) cho biết, cần tăng cường kiểm soát chặt chẽ từ khâu thu mua, bảo quản, chế biến, đóng gói sản phẩm…, nhằm ổn định và nâng cao chất lượng sản phẩm, cũng như uy tín của doanh nghiệp.
Nhận định về tình hình xuất khẩu gạo trong thời gian tới, ông Lê Anh Tuấn thông tin, doanh nghiệp tiếp tục giữ vững một số thị trường xuất khẩu chính, đồng thời tiếp tục mở rộng xuất khẩu sang các thị trường mới để không quá lệ thuộc vào một thị trường góp phần giải quyết vấn đề thị trường xuất khẩu.
Sớm có các biện pháp để giải quyết các khó khăn mà chuỗi cung ứng lúa gạo xuất khẩu đang gặp phải để hỗ trợ người nông dân và doanh nghiệp. Thống nhất quy trình kiểm dịch giữa các địa phương, tỉnh thành, đặc biệt trong giai đoạn dịch bệnh để doanh nghiệp nắm bắt và chủ động triển khai. Đồng thời, chính phủ cần có chính sách hỗ trợ để các hãng vận chuyển biển giảm cước vận tải về như giai đoạn trước khi có dịch bệnh.
“Các Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài tăng cường công tác thông tin thị trường, nắm bắt nhu cầu thị trường sở tại; thường xuyên tổ chức các chương trình giao thương trực tuyến, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp kết nối, tiếp cận các nhà nhập khẩu, hệ thống phân phối nước sở tại. Tìm kiếm cơ hội, giới thiệu kết nối các thị trường mới, tìm đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp theo đường chính ngạch,” ông Tuấn lý giải.
Về giải pháp, ông Phạm Thái Bình cho hay, sẽ mở rộng tìm kiếm khách hàng để đưa gạo ST20 vào nước Anh. Tuy nhiên, đây là quốc gia có nhiều rào cản khắt khe với những sản phẩm nhập khẩu, nhất là sản phẩm lương thực thực phẩm. Các doanh nghiệp đàm phán xuất khẩu cần cân nhắc về giá, không nên hạ giá để lấy sản lượng vì như vậy người nông dân phải chịu thiệt và ảnh hưởng không tốt đến việc xác định giá trị thực của hạt gạo Việt Nam.
"Cần tăng cường kiểm soát chặt chẽ từ khâu thu mua, bảo quản, chế biến, đóng gói sản phẩm…, nhằm ổn định và nâng cao chất lượng sản phẩm, cũng như uy tín của doanh nghiệp" - ông Lê Anh Tuấn Phó Tổng Giám đốc Phụ trách xuất khẩu, Tổng công ty Thương mại Hà Nội (HAPRO).
Nguồn: thuongtruong.com.vn