Cổng truy xuất nguồn gốc hàng hóa sẽ hoạt động trong năm nay
Chất vấn Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công Nghệ, Đại biểu Lã Thanh Tân - Đoàn ĐBQH TP. Hải Phòng cho biết, tài nguyên cát biển Việt Nam hiện có khoảng trên 200 tỷ mét khối. Cát biển có thể phục vụ phát triển nhiều ngành kinh tế, trong đó đáp ứng ngay nhu cầu cấp bách làm vật liệu xây dựng, san nền cho các công trình xây dựng đường bộ cao tốc, các công trình quan trọng quốc gia… Tuy nhiên, đến nay cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học cho việc triển khai còn nhiều khó khăn, bất cập.
Đại biểu cho rằng, trách nhiệm của Bộ trong việc này như thế nào? Bộ đã có nghiên cứu nào về cát biển phục vụ cho mục đích trên? Kết quả ra sao?

Bên cạnh đó, đại biểu Lã Thanh Tân cho rằng việc triển khai đề án truy xuất nguồn gốc sản phẩm hàng hóa còn chậm, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, chưa có cơ sở dữ liệu để truy xuất nguồn gốc… xin Bộ trưởng cho biết nguyên nhân và giải pháp về vấn đề này?
Trả lời nội dung này, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Hùynh Thành Đạt cho hay, Đề án truy xuất nguồn gốc được ban hành năm 2019, Bộ Khoa học Công nghệ cùng các bộ ngành triển khai, xây dựng 20 tiêu chí của Việt Nam về truy xuất nguồn gốc cũng như đưa vào vận hành Cổng thông tin về truy xuất nguồn gốc.
Các bộ Nông nghiệp, Công Thương, Y tế đã tham gia phổ biến thông tin, hoạt động truy xuất nguồn gốc trong ngành và xây dựng hệ thống quản lý thông tin truy xuất nguồn gốc hàng hóa thuộc lĩnh vực quản lý.
Dù vậy, việc triển khai Quyết định 100 liên quan đề án này còn một số nội dung chưa đạt yêu cầu như đưa Cổng truy xuất nguồn gốc vào hoạt động trọn vẹn vì còn vướng một số thủ tục. Trong vài tháng tới, Bộ cố gắng vận hành Cổng, cùng lúc xây dựng thông tin về quản lý truy xuất nguồn gốc; cùng Bộ tài chính ban hành thông tư cơ chế tài chính quản lý đề án này.

Có địa phương không bố trí vốn hoặc bố trí tỷ lệ rất thấp cho khoa học, công nghệ
Giải trình về chi cho đầu tư khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, trách niệm của Trung ương đã chi theo đúng quy định theo Nghị quyết của Quốc hội và Luật Đầu tư công; việc bố trí có trọng tâm, trọng điểm. Tuy nhiên, từ năm 2017 đến năm 2023, tỷ lệ chi giảm dần, chỉ đạt 1,1-1,18%, riêng năm 2023 là 0,83%, trong khi đó Nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị quy định đảm bảo từ 2% trở lên trong tổng chi ngân sách cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và tăng dần lên theo các năm.
Điều này cho thấy, các bộ, ngành địa phương chưa thực sự quan tâm, chưa có đề án đảm bảo đúng nguyên tắc, tiêu chí bố trí vốn, có địa phương không bố trí vốn hoặc bố trí tỷ lệ rất thấp cho hoạt động này.
Về Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định ba đột phá chiến lược gồm thể chế, hạ tầng, nguồn nhân lực và được lồng ghép thêm hai vấn đề cốt lõi là khoa học, công nghệ mới, sáng tạo và phát huy giá trị văn hóa và con người Việt Nam.
Xuất phát từ quan điểm này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã báo cáo Thủ tướng và quyết định thành lập Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia đặt tại Hòa Lạc. Đây là đơn vị sự nghiệp tự chủ hoàn toàn về cả chi thường xuyên và chi đầu tư. Chức năng của Trung tâm là xây dựng hệ sinh thái cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; áp dụng các cơ chế chính sách vượt trội, đào tạo nguồn nhân lực; hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; kết nối các viện, trường, các cơ sở nghiên cứ trong nước và ngoài nước, các trung tâm nghiên cứu, trung tâm đổi mới sáng tạo trong nước và ngoài nước.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng xây dựng Chương trình hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp Việt Nam, hiện có khoảng 5.000 doanh nghiệp được tiếp cận chương trình này. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang phối hợp với TP.Hồ Chí Minh, TP. Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế nhân rộng mô hình này, với tinh thần kết nối với Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia nhưng địa phương đầu tư và quản lý.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng cho biết hiện đã xây dựng mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam, theo đó đã hình thành được 8 văn phòng ở các nước phát triển, quy tụ gần 2.000 chuyên gia, nhà khoa học người Việt trên khắp thế giới trong mạng lưới này. Đây là một nguồn lực hết sức quý giá, vô giá để kết nối với trần lực lượng nghiên cứu trong nước, hỗ trợ bổ trợ cho trong nước, tranh thủ nguồn lực này phát triển đất nước.

Về bố trí ngân sách chi cho khoa học công nghệ, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, năm 2023, tổng chi ngân sách chiếm 0,82%, chi đầu tư là 0,23%, chi thường xuyên là 0,58%. Năm 2022, tỷ lệ chi ngân sách là 1,01%.
Về quyết toán chi ngân sách, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 95 ngày 17/10/2014, Bộ Tài chính và Bộ Khoa học Công nghệ đã ban hành Thông tư liên tịch số 27 về cơ chế khoán, nhiệm vụ chi khoa học công nghệ có sử dụng ngân sách, theo hướng thiết kế căn cứ vào hiệu quả, kết quả đầu ra để chi ngân sách. Thông tư này giao quyền chủ động cho đơn vị chủ trì và chủ nhiệm đề tài được điều chỉnh các mục chi, nội dung chi, định mức kinh phí được giao khoán. Với kinh phí không giao khoán thì thực hiện theo đề xuất của tổ chức chủ trì và cơ quan thẩm quyền phê duyệt.
Bộ trưởng cho biết, việc kiểm soát chi chuyển từ khoản chi theo hóa đơn chứng từ hồ sơ sang chi theo bảng kê công việc. Điều đó cho thấy cơ chế mở trong thực hiện khoán chi trong khoa học công nghệ, tuy nhiên hiện nay vẫn còn những tồn tại trong quá trình tuyển chọn, giao đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu, nên kinh phí giao muộn. Bên cạnh đó, việc thực hiện giao khoán lại thực hiện theo hướng hồ sơ chứng từ, gây khó khăn trong quá trình thực hiện nghiên cứu khoa học.
Thời gian tới, Bộ Khoa học Công nghệ sẽ chủ trì, Bộ Tài chính sẽ phối hợp cùng các bộ, ngành khác để sửa Nghị định 95, Thông tư 27 để phù hợp hơn, trên cơ sở lấy ý kiến của nhà khoa học, nhân dân để sửa các quy định của pháp luật để đảm bảo thông thoáng chủ động, căn cứ vào kết quả đầu ra của công việc để thực hiện hiệu quả.
Về cơ chế quản lý khoa học công nghệ, Bộ trưởng cho rằng cần thiết kế hoàn thiện lại để phù hợp hơn, cụ thể là đối với nhà nước, nên đặt hàng và thanh toán theo sản phẩm đặt hàng, việc đặt hàng có thể thực hiện đấu thầu, có thể chỉ định thầu, qua đó lập dự toán, căn cứ từ đó chọn những tổ chức nghiên cứu đảm bảo được sản phẩm đầu ra, giúp việc thanh toán được thuận lợi hơn. Cùng với đó, cần quy định việc chuyển giao, ứng dụng đề tài nghiên cứu vào thực tiễn để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Nguồn: thuongtruong.com.vn