Việt Nam hiện đã ký kết 15 Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương, trong đó có một số FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA đã và sẽ tiếp tục mở đường cho hàng hóa, sản phẩm nông sản chủ lực của Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới… giúp nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam khẳng định vị thế thương hiệu trên thị trường quốc tế. Dù vậy, trong hoạt động thương mại quốc tế, cùng với các biện pháp phi thuế quan còn có những hàng rào kỹ thuật (tiêu chuẩn, quy chuẩn), nhiều khi làm cản trợ lớn đối với thương mại nếu doanh nghiệp không để tâm tới vấn đề này.
Gia tăng rào cản kỹ thuật
Báo cáo từ Tổng cục Hải quan cho thấy, năm 2022, thị trường xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường lớn như Mỹ, châu Âu tăng mạnh. Cụ thể, với thị trường Mỹ, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu đạt hơn 101,2 tỷ USD, tăng gần 18%, trong khi đó thị trường châu Âu đạt 51,7 tỷ USD, tăng 12,8% so với năm 2021.

Theo các chuyên gia kinh tế, Hiệp định EVFTA cũng như các Hiệp định thương mại Việt Nam đang thực thi đã bước đầu mang lại những hiệu quả tích cực đối với doanh nghiệp, tạo ra tác động tích cực cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam nói chung, doanh nghiệp nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, đây đều là những thị trường khó tính, đòi hỏi yêu cầu tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cao.
Trong EU, thị trường Anh được xem là khó tính nhất sau khi nước này rời khỏi khối. Hiện tại, Vương quốc Anh đã ban hành quy định mới liên quan đến Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (gọi tắt là hiệp định TBT). Theo bà Tôn Nữ Thục Uyên - Phó giám đốc Văn phòng TBT Việt Nam, Anh hiện đã thông báo xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung 34 quy định liên quan đến TBT, chiếm 35% tổng số quy định TBT mà Anh đã sửa đổi từ năm 1997 đến nay. Về cơ bản, các quy định liên quan đến TBT của Anh phải tuân thủ theo tiêu chuẩn quốc tế nhưng nước này có thể đưa thêm những quy định riêng nhằm đảm bảo an toàn chất lượng hàng hóa nhập khẩu vào Anh. Vì vậy, trong thời gian tới doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa vào Anh phải phân biệt rõ những quy định của EU và quy định của Anh.
Cùng với nước Anh, nhiều nước khác cũng đang tích cực xây dựng, sửa chữa, bổ sung nhiều quy định, biện pháp liên quan đến TBT. Cụ thể, năm 2021 có khoảng 4.000 quy định về TBT được sửa đổi, gấp 2 lần so với năm 2015. Đến tháng 12 năm nay, con số quy định liên quan đến TBT được sửa đổi đã lên khoảng 6.000 quy định, gấp rưỡi so với năm trước. Đặc biệt, châu Âu là một trong 10 nước đưa ra nhiều quy định liên quan đến TBT và bị nêu ra nhiều quan ngại thương mại nhất của WTO.
Trong bối cảnh các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như EVFTA, CPTPP, UKVFTA đang được thực thi, hàng rào thuế quan dần dỡ bỏ cũng là lúc các quốc gia nhập khẩu có xu hướng gia tăng sử dụng các rào cản phi thuế quan - công cụ hợp pháp để bảo vệ thị trường trong nước. Trong đó, các biện pháp an toàn vệ sinh thực phẩm và kiểm dịch dịch động thực vật (SPS) hay các tiêu chuẩn về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) thường được xem là những "rào cản" cho các quốc gia xuất khẩu.
Với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, dệt may là một trong những nhóm sản phẩm chủ lực bị tác động đáng kể nhất khi sẽ phải tuân thủ các quy định, tiêu chuẩn ngặt nghèo hơn khi mới đây EU đã công bố chiến lược dệt may tuần hoàn. Trong khi đó, các sản phẩm thực phẩm, rau củ quả và gỗ muốn đẩy mạnh xuất khẩu cũng cần phải đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm soát chất lượng rất nghiêm ngặt... do đó số lượng biện pháp phi thuế quan đang tăng lên rất nhiều.
Đó là những nguyên nhân khiến nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam còn nhiều e ngại, thậm chí chưa thực sự sẵn sàng để tham gia vào các thị trường này.
Tận dụng cơ hội từ các FTA còn rất khiêm tốn
Theo các chuyên gia kinh tế, thị trường FTA còn nhiều dư địa để gia tăng giá trị xuất khẩu hàng hóa, nhất là các mặt hàng nông sản - hàng hóa chủ lực của Việt Nam. Tuy nhiên, việc tận để phát huy hiệu quả từ các hiệp định thương mại tự do này cũng còn nhiều trở ngại, và thực tế chúng ta vẫn chưa tận dụng tốt cơ hội từ thị trường này.

Chia sẻ về vấn đề này, ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương cho biết, dù giá trị xuất khẩu sang các thị trường có FTA mới như EU, Anh, Canada, Mexico tăng trưởng tốt, nhưng tỷ trọng của các thị trường này trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chưa tăng, thậm chí một số thị trường còn khá khiêm tốn. Thêm vào đó, tỷ lệ tận dụng các FTA cũng rất thấp. Cụ thể, tỷ lệ tận dụng ưu đãi trong EVFTA là 20%, UKVFTA là hơn 22% và CPTPP mới chỉ là 6%.
"Có rất nhiều yếu tố cản trở doanh nghiệp tận dụng ưu đãi từ các FTA, tuy nhiên năng lực cạnh tranh hạn chế đang là lực cản lớn nhất, tiếp đến là thiếu thông tin về các FTA và những biến động bất định của thị trường" - ông Chung cho biết thêm.
Theo kết quả khảo sát mới đây của Liên đoàn Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI), năm 2022 có hơn 46% số doanh nghiệp được hỏi cho biết gặp trở ngại về năng lực cạnh tranh; hơn 40% doanh nghiệp thiếu thông tin cụ thể về các cam kết và cách thức áp dụng FTA; gần 47% doanh nghiệp lo ngại các yếu tố biến động của thị trường.
Trong khi đó, theo đánh giá của Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, sau hơn 2 năm thực thi EVFTA, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam vào EU vẫn chưa tương xứng với triển vọng phát triển hợp tác thương mại giữa hai bên. Bên cạnh những ảnh hưởng khách quan từ dịch bệnh, rất nhiều doanh nghiệp Việt gặp những khó khăn trong quá trình tiếp cận thị trường EU và thực thi các quy định tại EVFTA. Một trong những khó khăn lớn nhất họ gặp phải chính là việc áp dụng quy tắc xuất xứ.
Doanh nghiệp Việt chưa tận dụng hết cơ hội khi xuất khẩu sang các thị trường lớn có FTA như EU, Hoa Kỳ hay Anh vì hầu hết sản phẩm được xuất thô hoặc sơ chế, gia công cho thương hiệu nước ngoài khiến hàng hóa Việt Nam chưa được người tiêu dùng nhận diện nhiều. Thêm vào đó, bản thân doanh nghiệp chậm thay đổi để thích ứng và tận dụng các cơ hội cũng như ưu đãi.
Cải thiện năng lực nội sinh để tận dụng tốt hơn cơ hội từ FTA
Như đã nêu ở trên, việc tham gia ký kết hợp tác với nhiều khu vực thông qua các FTA đang là động lực lớn thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam, là cơ hội để các doanh nghiệp ngày càng tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng hoàng hóa, nông sản - thực phẩm toàn cầu.
Tuy nhiên, việc các nước đặt ra các yêu cầu kỹ thuật, hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) rất khắt khe đang khiến các sản phẩm nông lâm - thủy sản, hàng hóa xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gặp nhiều thách thức.
Thực tế vừa qua cho thấy, nhiều sản phẩm nông sản và thủy sản xuất khẩu của Việt Nam có mức dư lượng hóa chất nông nghiệp vượt quá mức quy định đã bị Liên minh châu Âu (EU) thu hồi hoặc cảnh báo. Điều này đồng nghĩa với việc nếu không đáp ứng được những yêu cầu về an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật (SPS), thì chúng ta không thể vào được các thị trường đối tác hoặc nếu có thể vào cũng sẽ bị ngăn chặn do không đạt tiêu chuẩn, thậm chí có thể bị trả lại, tiêu hủy, gây ra nhiều tổn thất cho doanh nghiệp lẫn hệ thống sản xuất trong nước. Do đó, doanh nghiệp Việt cần hiểu rõ các yêu cầu này để tận dựng cơ hội đưa hàng hóa mình tiếp cận thị trường. Những thị trường có yêu cầu khắt khe như EU nếu tiếp cận được sẽ giúp tạo sự lan tỏa, đưa hàng hóa chúng ta dễ dàng tiếp hơn với các thị trường khác.
Bên cạnh đó, để tận dụng từ các ưu đãi thuế quan trong EVFTA, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần đáp ứng tốt các quy định về quy tắc xuất xứ. Thực tế vấn đề này đang là trở ngại cho nhiều doanh nghiệp, nhiều đơn vị tỏ ra lúng túng khi xử lý hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O), thậm chí còn thiếu kiến thức và năng lực thay đổi sản xuất nhằm đáp ứng các yêu cầu đưa ra từ phía khách hàng. Một điểm yếu khác của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngành nông lâm - thủy sản Việt Nam chính là tỷ lệ hàng xuất khẩu được chế biến sâu và có thương hiệu còn rất thấp.
Để hài hòa và vượt qua các rào cản thương mại, các chuyên gia kinh tế cho rằng: Doanh nghiệp cần phải có giải pháp ứng phó chủ động, lâu dài. Trong đó đặc biệt ưu tiên cho chiến lược nghiên cứu phát triển sản phẩm, đổi mới công nghệ, cải thiện năng lực quản trị doanh nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh. Chủ động áp dụng các tiêu chuẩn về quản lý chất lượng, quản lý môi trường, quản lý năng lượng, an toàn thực phẩm, an toàn thông tin, trách nhiệm xã hội,… vốn được phổ cập rộng rãi trên thế giới. Đồng thời, đáp ứng các yêu cầu từ phía các đối tác, từ đó tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường.
Một điểm rất đáng chú ý là hiện này vấn đề về môi trường/khí hậu, chuyển đổi xanh, phát triển bền vững tại các thị trường FTA đang được siết chặt. Xu hướng này được nhận định sẽ tác động lớn đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong thời gian tới, gia tăng thêm hàng rào về mặt kỹ thuật và hành chính đối với cả các mặt hàng từ nông nghiệp đến công nghiệp.
Trước các yêu cầu này, các doanh nghiệp xuất khẩu cần hết sức cẩn trọng, và nên có những ưu tiên từ trong quá trình sản xuất đến hoàn thiện sản phẩm hàng hóa trước khi thâm nhập thị trường FTA.
Nguồn: thuongtruong.com.vn

