Ngân hàng siết tín dụng
Từ đầu năm 2022, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có động thái yêu cầu các ngân hàng thương mại phải hướng tín dụng vào sản xuất - kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, đồng thời tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như: Bất động sản (BĐS), chứng khoán… Đây được xem là giải pháp nhằm hạn chế các hoạt động đầu cơ, giúp thị trường tài chính trở nên minh bạch, sau hàng loạt những bê bối của doanh nghiệp như sự cố của Tập đoàn FLC, Tân Hoàng Minh hay Chứng khoán Trí Việt... Động thái này của NHNN là cần thiết, nhằm lạnh mạnh hóa thị trường, giảm thiểu các rủi ro cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, việc hạn chế trần tín dụng đối với hệ thống ngân hàng khiến nhiều doanh nghiệp không thể tiếp cận được vốn vay. Thậm chí dù có vay được, đà tăng lãi suất gần đây khiến chi phí vay trở nên cao hơn. Không chỉ những kênh được xem là rủi ro như bất động sản hay chứng khoán mới đối mặt với việc dòng vốn bị kiểm soát chặt chẽ, mà hiện nay nhiều doanh nghiệp sản xuất cũng phản ánh không thể vay ngân hàng.
Áp lực chi phí vốn đầu vào ngày càng gia tăng, khi xu hướng lãi suất tiền gửi trên thị trường dân cư đã bật tăng trở lại từ đầu năm đến nay, cùng với lãi suất vay mượn giữa các ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng cũng bật tăng trong hai tháng qua khi thanh khoản hệ thống bị hút ròng. Trong khi đó, lãi suất cho vay vẫn được kiểm soát theo định hướng của nhà điều hành. Điều này khiến biên độ lãi của hoạt động tín dụng đang bị co lại. Các ngân hàng dường như đang rà soát lại chiến lược phát triển cho giai đoạn tới.
Nhiều doanh nghiệp do đó đã nghĩ tới phương án vay nợ nước ngoài, đặc biệt là vay nợ bằng USD, nhưng lại đối mặt với tình hình tỉ giá VND/USD tăng, đồng thời lãi suất vay USD tăng cao do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) thu hẹp chính sách tiền tệ, khiến chi phí vay ngoại tệ của doanh nghiệp trở nên đắt đỏ.
Dòng tiền huy động từ trái phiếu bị giám sát chặt
Hoạt động huy động vốn từ trái phiếu của doanh nghiệp cũng không lạc quan. Hiện các cơ quan quản lý nhà nước đang nỗ lực lành mạnh hóa thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN). Đặc biệt, Nghị định 65/2022 ban hành mới đây quy định về chào bán, giao dịch TPDN riêng lẻ được kỳ vọng sẽ tạo ra nền tảng phát triển một cách bền vững, ổn định cho thị trường TPDN thông qua việc tăng cường trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp phát hành trong việc sử dụng tiền thu từ phát hành trái phiếu đúng mục đích.
Cụ thể, Nghị định 65/2022 có nhiều điểm mới cần thiết để góp phần minh bạch hóa thị trường TPDN. Chẳng hạn, theo quy định cũ, tổ chức phát hành chỉ cần công bố thông tin trước khi phát hành và thông báo kết quả phát hành cho nhà đầu tư đăng ký mua trái phiếu. Còn theo nghị định mới, DN phải công bố thông tin trên website của Sở giao dịch chứng khoán, bao gồm thông tin trước khi giao dịch, kết quả đợt phát hành, thông tin định kỳ và các thông tin bất thường. Việc công bố thông tin một cách công khai, chi tiết về đơn vị phát hành là một trong những cách để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhà đầu tư.
Nghị định 65/2022/NĐ-CP bổ sung cách thức xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là đối tượng được phép đầu tư và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ. Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp phải đảm bảo danh mục nắm giữ có giá trị trung bình từ 2 tỉ đồng trong vòng 180 ngày bằng tài sản của nhà đầu tư, không bao gồm tiền vay. Với quy định mới này, cơ hội cho nhà đầu tư cá nhân lách luật như trước đây là cực kỳ khó.
Nghị định mới còn bổ sung quy định: DN bắt buộc phải mua lại trái phiếu trước hạn khi vi phạm phương án phát hành, trong đó có phương án sử dụng vốn hoặc vi phạm pháp luật. Mặt khác, việc áp dụng xếp hạng tín nhiệm bắt buộc với một số trường hợp sẽ đem lại lợi ích cho không chỉ nhà đầu tư mà còn với chính nhà phát hành và thị trường nói chung.
Theo số liệu của Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA), giá trị phát hành riêng lẻ trong 9 tháng đầu năm 2022 chỉ đạt hơn 230.000 tỉ đồng, giảm 40% so với cùng kỳ. Thậm chí, các doanh nghiệp còn phải bỏ tiền nhiều hơn để mua lại trái phiếu của mình. Theo VBMA, tổng giá trị trái phiếu được các doanh nghiệp mua lại đã đạt hơn 140.000 tỉ đồng, tăng đột biến 67% so với năm ngoái.
Kế hoạch phát hành cổ phiếu ngưng trệ khi chứng khoán kém sắc
Thị trường chứng khoán được xem như miền đất hứa giúp các doanh nghiệp huy động vốn, từ đó mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển và tạo ra nhiều lợi nhuận hơn. Tuy vậy, sang năm 2022, tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu không còn dễ dàng trong bối cảnh thị trường chung không còn thuân lợi, thanh khoản sụt giảm mạnh, cùng với định hướng hạn chế dòng tiền chảy "nóng" vào thị trường chứng khoán.
Không chỉ riêng giai đoạn này, đà suy giảm của thị trường kể từ đầu quý 2 đã tác động không nhỏ đến kế hoạch huy động vốn qua kênh cổ phiếu của các doanh nghiệp. Theo ghi nhận, ngoài một số ngân hàng và công ty chứng khoán, thị trường không có nhiều thương vụ huy động lớn kể từ đầu năm. Doanh nghiệp bất động sản trước đó lên kế hoạch huy động vốn lớn khi thị trường chứng khoán diễn biễn thuận lợi.
Trong bối cảnh ít thông tin hỗ trợ cũng như quyết định nâng lãi suất mới đây của Fed cùng động thái tăng trần lãi suất tiền gửi của NHNN được dự báo sẽ ảnh hưởng ít nhiều tới lượng tiền đổ vào thị trường chứng khoán. Đây được coi như trở ngại không nhỏ cho sự mở rộng quy mô vốn của nhiều doanh nghiệp.
Giải quyết câu chuyện thiếu vốn của doanh nghiệp
Khó khăn về vốn đang đặt doanh nghiệp tư nhân Việt Nam vào những tình thế khó khăn, ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của nhiều ngành, lĩnh vực và nội tại nền kinh tế trong nước. Từng trụ được qua hai năm dịch bệnh, nhưng nhiều doanh nghiệp lại trở nên kiệt sức khi nền kinh tế bắt đầu hồi sinh.
Phát biểu trên nghị trường Quốc hội, để giải quyết câu chuyện thiếu vốn của doanh nghiệp, đại biểu Quốc hội Nguyễn Mạnh Hùng (Cần Thơ) nhấn mạnh đến giải pháp tài khóa. Ông đề xuất, Chính phủ cần sớm có giải pháp triển khai hiệu quả các gói chính sách tài khóa và tiền tệ hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế, đặc biệt cần có giải pháp để đẩy nhanh gói hỗ trợ lãi suất 2%, giúp nguồn vốn từ chương trình này sớm phát huy hiệu quả trong việc giải bài toán thiếu vốn cho nền kinh tế, song song với giải pháp phục hồi và phát triển thị trường chứng khoán.
Liên quan đến việc sử dụng chính sách tài khóa, TS. Nguyễn Quốc Việt, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), Đại học Quốc gia Hà Nội nêu quan điểm, ông ủng hộ giải pháp nới chính sách tài khóa nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, thậm chí đề xuất đưa vào Nghị quyết của Quốc hội kỳ này để áp dụng cho năm tới. Tuy nhiên, với các doanh nghiệp đang khủng hoảng đảo nợ hiện nay, việc giãn, hoãn thuế không có nhiều tác dụng, bởi cái họ cần ngay là tiếp vốn trực tiếp, như cách "bơm máu" vào cơ thể đang suy yếu, để duy trì các dự án đang chịu áp lực vay nợ với lãi suất ngày càng cao.
Chuyên gia của VEPR cũng khuyến nghị, nên ưu tiên nới chính sách hỗ trợ vốn cho nhóm doanh nghiệp xây dựng cơ bản, gắn với đầu tư công, để tháo gỡ ách tắc giải ngân vốn đầu tư công, từ đó kích hoạt nguồn vốn chảy vào các lĩnh vực, ngành nghề khác.
Trước đó, Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV), thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính cũng đã có tổng hợp và báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ về những thách thức lớn nhất của doanh nghiệp các tháng cuối năm 2022 và đầu năm 2023. Trên cơ sở phản ánh của các doanh nghiệp, hiệp hội từ nửa cuối tháng 10 tới nay, Ban IV cho biết hiện doanh nghiệp ở hầu hết ngành hàng đều nhận định, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong nửa cuối quý IV/2022 và đầu năm 2023 sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Doanh nghiệp ở một số ngành phản ánh các khó khăn chưa từng có trong hoạt động sản xuất kinh doanh do thiếu vốn.
Theo đó, đối với thách thức liên quan thị trường tài chính, Ban IV đề xuất Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước tham vấn các chuyên gia tài chính, chính sách uy tín trong nước, quốc tế để đánh giá bối cảnh và nhận diện giải pháp. Trường hợp cần thiết, có thể tính tới các giải pháp đặc biệt trong giai đoạn nhất định nhằm giải nguy cho doanh nghiệp và nền kinh tế, như cho phép các ngân hàng thương mại trong nước tham gia mua lại các trái phiếu sắp tới hạn và xử lý như một dạng tín dụng đặc biệt ngoài tín dụng thông thường, vì lượng trái phiếu sắp tới hạn có giá trị vượt rất nhiều lần khả năng mua lại của một số tổng công ty nhà nước.
Nguồn: thuongtruong.com.vn