Thuế Tiêu thụ đặc biệt ở mức trung bình
Mới đây, Bộ Tài chính vừa hoàn thiện dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về giảm mức thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xăng và thuế giá trị gia tăng đối với xăng dầu gửi lấy ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp trước khi trình Chính phủ trình Quốc hội.
Dự thảo đã được hoàn thiện sau khi lấy ý kiến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Có ý kiến đề nghị xem xét nghiên cứu, đánh giá tác động của chính sách miễn giảm toàn bộ thuế Tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng xăng trong trường hợp giá xăng trên thế giới tăng cao bất thường.
Bộ Tài chính cho biết, theo quy định của Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt thì chỉ thu thuế Tiêu thụ đặc biệt đối với xăng, không thu thuế Tiêu thụ đặc biệt đối với dầu các loại. Mức thuế suất thuế Tiêu thụ đặc biệt đối với xăng là 10%, xăng E5 là 8% và xăng E10 là 7%.
Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt không quy định giảm thuế, miễn thuế đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế Tiêu thụ đặc biệt.

Về thẩm quyền, việc thực hiện điều chỉnh đối với thuế Tiêu thụ đặc biệt thuộc thẩm quyền của Quốc hội nên phải trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Cũng theo Bộ Tài chính, xăng là nhiên liệu gốc hóa thạch, không tái tạo cần phải sử dụng tiết kiệm nên hầu hết các nước đều thu thuế Tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng xăng.
Bộ Tài chính lấy ví dụ tại Pháp (0,6629 EUR/lít đối với xăng E10 và 0,6829 EUR/lít đối với xăng khoáng); Đức (0,3545 EUR/lít); Ý (0,4784 EUR/lít); Anh (0,5295 Bảng/lít); Hàn Quốc (311 Won/lít thuế tuyệt đối và thuế tỷ lệ 15%); Úc (0,221 Đô la Úc/lít); Thái Lan (6,5 bạt/lít đối với xăng khoáng, 5,85 bạt/lít đối với xăng 95 E10, 5,2 bạt/lít đối với xăng 95 E20, 0,975 bạt/lít đối với xăng 95 E85, 2,99 bạt/lít đối với dầu diesel). Tại Singgapo (0,41 Đô la Singgapo/lít); Trung Quốc (1,52 Nhân dân tệ/lít, tương đương tỷ lệ 15,6%); Campuchia (thuế suất 15%); Lào (thuế suất 16%)...
Từ đó, Bộ Tài chính nhận định, mức thuế suất thuế Tiêu thụ đặc biệt đối với xăng của Việt Nam hiện ở mức trung bình thấp so với các nước, đặc biệt thấp hơn so với các nước có chung đường biên giới với Việt Nam như Lào, Campuchia, Trung Quốc.
Việc giảm thuế phải căn cứ trên cơ sở tính toán, đề xuất của Chính phủ
Về ý kiến đề nghị bổ sung, làm rõ sự cần thiết giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) quy định "thời gian áp dụng giảm thuế" và nguyên tắc để xác định "thời gian áp dụng giảm thuế".
Về vấn đề này, Bộ Tài chính cho biết, theo quy định tại Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thuế giá trị gia tăng thì việc giảm thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế GTGT thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
Tại Thông báo số 1265 về, UBTVQH nêu rõ chỉ điều chỉnh thuế trong trường hợp giá xăng, dầu thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, tăng cao hoặc vẫn ở mức cao, tác động đến chỉ số lạm phát, kinh tế vĩ mô, sinh kế, đời sống người dân và tăng trưởng kinh tế.
Vì vậy, để đảm bảo linh hoạt, phù hợp với thực tế phát sinh, dự thảo nghị quyết chỉ trình nguyên tắc giảm thuế chứ không không cụ thể phương án và giao thẩm quyền cho UBTVQH quyết định khi giá xăng dầu tăng cao.
Việc UBTVQH quyết định giảm thuế cũng như thời gian áp dụng giảm thuế cụ thể phải trên cơ sở tính toán, đề xuất của Chính phủ căn cứ tình hình diễn biến giá xăng dầu thực tế và trên cơ sở khả năng cân đối, hỗ trợ của ngân sách nhà nước.
Về kinh nghiệm quốc tế trong việc ổn định giá xăng dầu, có ý kiến đề nghị bổ sung kinh nghiệm quốc tế như Đức giảm thuế GTGT đối với khí đốt từ mức 19% hiện tại xuống còn 7% trong khoảng thời gian từ 1/10/2022 - 31/3/2024. Bộ Tài chính đã tiếp thu và bổ sung vào phần kinh nghiệm quốc tế tại Tờ trình Chính phủ.
Về giá cơ sở xăng dầu, có ý kiến đề nghị cân nhắc cập nhật về tỷ trọng chi phí trong giá cơ sở xăng dầu, số liệu đối với các thuyết minh về tỷ trọng thuế, mức giá, mức thuế đối với các mặt hàng xăng dầu tại dự thảo. Bộ Tài chính đã tiếp thu và cập nhật lại số liệu theo kỳ điều chỉnh giá cơ sở xăng dầu gần nhất có thể kỳ điều chỉnh ngày 21/9.
Hồng Quang
Nguồn: thuongtruong.com.vn