Khối ngoại bán ròng chứng khoán Việt
Nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng triền miên trong suốt 4 năm qua và chỉ mua ròng ở một vài giai đoạn ngắn điển hình như thời điểm thị trường rơi xuống đáy dài hạn cuối năm ngoái. 3 tỷ USD là giá trị bán ròng của khối ngoại trên thị trường chứng khoán Việt Nam kể từ năm 2020 đến nay. Chỉ tính từ đầu năm 2023, giá trị bán ròng đã hơn 20.731 tỷ đồng. Nếu đà bán ròng tiếp tục nối dài, thành quả mua ròng của năm 2022 (gần 28.319 tỷ đồng) sẽ bị đe dọa.
Theo Bà Hoàng Việt Phương, Giám đốc Trung tâm Phân tích và Tư vấn đầu tư (SSI Research), Công ty cổ phần Chứng khoán SSI, khối ngoại bán ròng mạnh đến từ sự đảo chiều rút ròng từ các quỹ ETF và xu hướng rút ròng chung của các quỹ đầu tư đa quốc gia rút khỏi các thị trường mới nổi, trong khi nhóm quỹ chủ động ở Việt Nam gần như chỉ rút ròng nhẹ trong 4 tháng qua.
Nguyên nhân đến từ chênh lệch lãi suất thực của Mỹ và các quốc gia còn lại, bên cạnh chính sách tiền tệ của Việt Nam phân kỳ với chính sách tiền tệ của Mỹ và một phần đến từ hoạt động chốt lời sau giai đoạn mua ròng mạnh ở 3 tháng 11/2022, 12/2022 và tháng 1/2023 với tổng giá trị lên đến 32.500 tỷ đồng.
Cũng có thể thấy, khối ngoại bán ròng từ đầu năm đến nay tập trung ở một số mã cổ phiếu nhất định và cũng phản ánh phần nào hoạt động tái cơ cấu danh mục.
Rót tiền qua đầu tư FDI, cổ phần chiến lược, thâu tóm ngoài sàn
Đáng chú ý là mặc dù xả hàng liên tục trên sàn chứng khoán nhưng tiền ngoại thực tế không rút khỏi các doanh nghiệp Việt Nam. Dòng vốn ngoại vẫn âm thầm đổ vào thị trường qua các thương vụ mua cổ phần chiến lược.
Nổi bật nhất là thương vụ SMBC mua 15% cổ phần VPBank trong đợt chào bán riêng lẻ với giá trị khoảng 1,5 tỷ USD hồi giữa năm nay. Daytona Investments mua cổ phần Sữa Quốc Tế (IDP); Hana Securites trở thành cổ đông chiến lược của Chứng khoán BSC; ASKA Pharmaceutical liên tục tăng sở hữu tại Dược Hà Tây (DHT) qua các đợt chào bán riêng lẻ….
Hoạt động mua bán, sáp nhập ngoài sàn chứng khoán cũng được nhà đầu tư nước ngoài thúc đẩy những năm gần đây. Điển hình như thương vụ SMBC mua 49% cổ phần FE Credit từ VPBank năm 2021 với giá trị thương vụ vào khoảng 1,4 tỷ USD; AEON chi 180 triệu USD mua 100% vốn góp tại Công ty Tài chính TNHH MTV Bưu điện (PTF) từ SeABank; ESR bỏ ra 450 triệu USD mua cổ phần BW Industrial, Krungsri mua 50% vốn SHB Finance từ SHB,…
Trong lĩnh vực chăm sức khỏe, Thomson Medical bỏ ra gần 380 triệu USD mua Bệnh viện FV; VinaCapital rót vốn vào Bệnh viện Thu Cúc; Dongwha Pharm mua lại 51% cổ phần Trung Sơn Pharma; Tập đoàn Raffles Medical Group (RMG) mua lại cổ phần kiểm soát Bệnh viện Quốc tế Mỹ (AIH);…
Bên cạnh đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam lại không ngừng chảy vào Việt Nam. Theo Tổng cục Thống kê, FDI đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/11/2023 đạt gần 28,85 tỷ USD. Trong đó, vốn đầu tư thực hiện 11 tháng năm 2023 ước đạt 20,25 tỷ USD, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước và là mức cao nhất của 11 tháng trong 5 năm qua.
Dòng vốn FDI có xu hướng tìm kiếm các cơ hội đầu tư lâu dài vào các lĩnh vực sản xuất. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đang dẫn đầu về thu hút FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký lũy kế trên các dự án còn hiệu lực lên đến hơn 260 tỷ USD, chiếm 59,3%. Theo sau lần lượt là các lĩnh vực như bất động sản; sản xuất và phân phối điện; dịch vụ lưu trú, ăn uống; xây dựng; bán buôn, bán lẻ phụ tùng ô tô; vận tải kho bãi; thông tin truyền thông; khai khoáng; hoạt động chuyên môn khoa học công nghệ...
Yếu tố giúp TTCK Việt Nam thu hút vốn ngoại trong thời gian tới?
Có thể thấy, dòng vốn ngoại vẫn đổ vào Việt Nam nhưng đã có sự chọn lọc nhất định. Các lĩnh vực hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài như sản xuất, công nghiệp, công nghệ, y tế, chăm sóc sức khỏe,… lại không có nhiều cổ phiếu trên sàn chứng khoán và tỷ trọng cũng rất hạn chế.
Trong khi đó, cơ cấu của chứng khoán Việt Nam gần như nghiêng hẳn về 2 nhóm tài chính và bất động sản với số lượng cổ phiếu và vốn hóa áp đảo. Thực tế, tài chính và bất động sản đều phục thuộc rất nhiều vào chu kỳ kinh tế và tăng trưởng tín dụng. Điều này khiến cho 2 nhóm cổ phiếu này có tính đầu cơ cao. Ngoài nhóm đầu tư chiến lược, dòng vốn ngoại chủ yếu lướt sóng, đánh nhanh rút gọn trên các cổ phiếu này. Trong khi đó, các nhóm có khả năng hút vốn ngoại bền vững lại có quá ít lựa chọn, một số thường xuyên trong tình trạng hết room.
Cơ cấu mất cân bằng khiến việc đa dạng các sản phẩm đầu tư trở nên khó khăn. Danh mục của các quỹ đầu tư chủ động lớn đều là những gương mặt quen thuộc. Các bộ chỉ số tham chiếu cho các quỹ ETF cũng "na ná" nhau với cơ cấu chủ yếu gồm cổ phiếu ngân hàng, chứng khoán, bất động sản. Nhà đầu tư gần như không có lựa chọn khác. Điều này khiến cho thị trường chứng khoán Việt Nam khó thu hút được dòng vốn ngoại trở lại mua qua sàn. Thay vào đó, nhà đầu tư nước ngoài muốn "rót tiền" vào Việt Nam những năm qua thường sẽ thông qua việc đầu tư FDI, hay các thương vụ thâu tóm, mua cổ phần chiến lược doanh nghiệp.
Thực tế, không chỉ ở Việt Nam mà các quốc gia đang phát triển nói chung kể từ giữa năm 2023 là việc bị rút ròng, khi dòng tiền quay ngược trở lại thị trường Mỹ (bao gồm cả cổ phiếu, trái phiếu hay quỹ tiền tệ).
Đối với kỳ vọng trong thời gian tới, hiện tại, tỷ trọng phân bổ tài sản vào các quỹ cổ phiếu đang ở mức tương đương với trung bình 5 năm (khoảng 55%), cho thấy dòng tiền vào cổ phiếu vẫn có khả năng bứt phá, đặc biệt từ việc tái cơ cấu từ các quỹ tiền tệ (vào ròng lên tới 1.300 tỷ USD trong năm 2023) nếu xu hướng cắt giảm lãi suất từ các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ rõ ràng và mạnh mẽ hơn. Khi đó, thị trường mới nổi (và cả Việt Nam) chắc chắn sẽ được hưởng lợi phần nào.
Điểm sáng của thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ đến từ môi trường vĩ mô ổn định (tỷ giá và lạm phát được kiểm soát), chính sách tiền tệ thuận lợi (mặt bằng lãi suất đang ở mức thấp trong lịch sử), tiêu dùng trong nước vẫn còn tiềm năng lớn để phát triển khi cơ cấu dân số vẫn trong giai đoạn vàng và dòng vốn FDI tích cực nhờ xu hướng chuyển dịch và lợi thế từ câu chuyện Trung Quốc +1.
Tuy nhiên, để có thể thu hút dòng vốn quỹ ngoại một cách dài hạn hơn, bên cạnh việc được nâng hạng từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi để có thể kích hoạt một lượng vốn Quỹ ETF và chủ động, thị trường chứng khoán nên phát triển một cách sâu rộng hơn, bao gồm: Đẩy mạnh số lượng doanh nghiệp niêm yết trên sàn nhằm đa dạng hóa các ngành nghề niêm yết và từ đó các doanh nghiệp cũng sẽ giảm phụ thuộc vào tín dụng ngân hang; tăng tỷ lệ tham gia của các nhà đầu tư tổ chức (bao gồm cả quỹ hưu trí) để giúp thị trường ổn định hơn.
Nguồn: thuongtruong.com.vn