
Giá lúa gạo hôm nay 14/3 tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long điều chỉnh tăng nhẹ. Hiện giá gạo nguyên liệu, thành phẩm ở mức 9.150 đồng/kg, tăng 50 đồng/kg; gạo thành phẩm 10.100 đồng/kg, tăng 50 đồng/kg. Với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm duy trì ổn định. Hiện giá cám khô ở mức 7.700 đồng/kg, giá tấm ở mức 9.000 đồng/kg.
Với mặt hàng lúa, giá lúa không có biến động. Theo đó, tại kho An Giang, lúa Đài thơm 8 6.700 - 6.800 đồng/kg; nếp tươi Long An 6.600 - 6.800 đồng/kg; lúa OM 18 ở mức 6.600 - 6.800 đồng/kg; lúa OM 5451 6.400 - 6.600 đồng/kg; nàng hoa 9 6.800 - 7.100 đồng/kg; nếp khô Long An 9.000 - 9.200 đồng/kg, nếp khô An Giang giá dao động 8.400 - 8.600 đồng/kg; lúa Nhật 7.800 - 7.900 đồng/kg; lúa IR 504 ở mức 6.400 - 6.600 đồng/kg; lúa IR 504 khô duy trì ở mức 6.500 đồng/kg; nếp tươi An Giang đang được thương lái thu mua ở mức 7.000 - 7.200 đồng/kg; nếp Long An tươi 7.850 - 8.000 đồng/kg.
Tại chợ lẻ, giá gạo thường 11.500 đồng/kg - 12.500 đồng/kg; gạo thơm Jasmine 15.000 - 16.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 14.000 đồng/kg; nếp ruột 14.000 - 15.000 đồng/kg; Gạo Nàng Nhen 20.000 đồng/kg; Gạo thơm thái hạt dài 18.000 - 19.000 đồng/kg; Gạo Hương Lài 19.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng 14.000 đồng/kg; Nàng Hoa 17.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 20.000 đồng/kg; Cám 7.000 - 8.000 đồng/kg.
Trên thị trường thế giới, giá chào bán gạo xuất khẩu của Việt Nam hôm nay chững lại sau phiên điều chỉnh giảm. Hiện giá gạo 5% tấm đang ở mức 443 USD/tấn; gạo 25% tấm duy trì ở mức 423 USD/tấn.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, 2 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo đạt hơn 893.000 tấn, trị giá 472 triệu USD, giảm hơn 8% về lượng nhưng tăng 1% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Giá xuất khẩu trung bình đạt 528,9 USD/tấn, tăng 9,8%.
2 tháng qua, Philippines vẫn đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm 45% trong tổng lượng và chiếm 43,3% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu của cả nước, đạt 401.975 tấn, tương đương 204,69 triệu USD, giá trung bình 509,2 USD/tấn, giảm 25,5% về lượng, giảm 18,2% về kim ngạch nhưng tăng 9,7% về giá so với 2 tháng đầu năm 2022.
Tiếp sau đó là thị trường Trung Quốc chiếm 17% trong tổng lượng và chiếm 19% trong tổng kim ngạch, đạt 152.640 tấn, tương đương 90,01 triệu USD, giá trung bình 589,7 USD/tấn, tăng mạnh 86,4% về lượng và tăng 120,5% kim ngạch; giá tăng 18,3% so với cùng kỳ năm 2022.
Bộ Công thương dự báo, xuất khẩu gạo vẫn tiếp tục thuận lợi. Trong ngắn hạn, giá gạo vẫn ở mức tốt do những bất ổn về kinh tế, chính trị toàn cầu khiến nhu cầu dự trữ lương thực tăng lên. Đây là yếu tố giúp các doanh nghiệp gạo được hưởng lợi trong thời gian tới.
Nguồn: thuongtruong.com.vn