Nhu cầu tăng nhưng nguồn cung còn hạn chế
Trong năm 2022, nhu cầu về đá xây dựng yếu do giải ngân đầu tư công ở mức thấp. Nhu cầu đá xây dựng để xây dựng cầu, đường và các cơ sở hạ tầng giao thông khác chiếm khoảng 65%-70% tổng nhu cầu đá xây dựng. Theo Bộ Tài chính, mức giải ngân năm 2022 ước đạt 436 nghìn tỷ đồng, đạt 67,3% kế hoạch. Còn theo Bộ Xây dựng, giá đá xây dựng trong năm 2022 đã tăng 7,6% so với cùng kỳ do giá xăng, dầu tăng tác động đến chi phí khai thác và vận chuyển.
Bước sang năm 2023, nhu cầu đầu tư dự kiến tăng lên nhờ vào động lực chính đến từ các dự án đầu tư công. Kế hoạch giải ngân đầu tư công năm 2023 dự kiến là 726 nghìn tỷ đồng (tương đương 30,5 tỷ USD; tăng so với 27,2 tỷ USD của kế hoạch sửa đổi năm 2022). Các dự án trọng điểm bao gồm: đường cao tốc Bắc Nam; các dự án Đường vành đai khác nhau ở Hà Nội và TP.HCM; sân bay Long Thành…
Tuy nhiên, theo Tổng công ty Hàng không Việt Nam (ACV - chủ đầu tư Sân bay Long Thành), gói thầu xây dựng nhà ga vẫn chưa tìm được nhà thầu. Do đó, nhiều khả năng nhu cầu đá xây dựng từ dự án Sân bay Long Thành chỉ có thể tăng lên sớm nhất từ quý 2/2023 do cần thời gian để có thể thay đổi các điều khoản và điều kiện đấu thầu.
SSI Research nhận thấy nhu cầu sử dụng đá xây dựng phục vụ cho các dự án đầu tư công là rất lớn. Theo Bộ Giao thông vận tải, nhu cầu về đá xây dựng giai đoạn 2023-2025 rơi vào khoảng 21,5 triệu m3. Cụ thể hơn, dự án sân bay Long Thành, đường cao tốc Biên Hòa Vũng Tàu, đường vành đai 3 dự kiến sử dụng lần lượt 2,04 triệu m3, 738 nghìn m3 và 5,2 triệu m3 đá xây dựng.
Tuy nhiên, nguồn cung đá xây dựng vẫn tiếp tục còn hạn chế do Quy hoạch mỏ đá xây dựng giai đoạn 2021-2025 mới chưa hoàn thành, đặc biệt đối với các tỉnh, thành phố là "trung tâm" khai thác đá xây dựng miền Nam, trong đó có tỉnh Bình Dương và Đồng Nai. Việc thay đổi các mỏ đá xây dựng cũ gặp phải các thách thức về pháp lý và đánh giá tác động môi trường.
Đặc biệt, giá bồi thường đất tại các khu vực khai thác đá đều tăng (cụ thể, tăng 20% tại TP.HCM, tăng 15% tại Hà Nội, tăng từ 1,5 - 3 lần tại Đồng Nai, tăng từ 20% - 45% tại Bình Dương, tăng từ 50% - đến 2,73 lần ở Bà Rịa - Vũng Tàu, tăng 84% ở Bình Phước, tăng 40% ở Bắc Ninh, tăng 60% ở Long An, tăng 36% ở Bắc Giang và tăng 39% ở tỉnh Hưng Yên).
Hầu hết các mỏ đá xây dựng được phân bố trên cả nước, chi phí vận chuyển là yếu tố ảnh hưởng lớn đến giá thành đá xây dựng. Do đó, hầu hết các nhà thầu xây dựng sẽ chọn mỏ đá gần dự án.
Theo đó, mỏ đá xây dựng Tân Cang - nguồn cung chính cho dự án Sân bay Long Thành, Vành đai 3 và các dự án khác. Có 9 mỏ đá ở khu vực Tân Cang, bao gồm các công ty niêm yết như DHA và VLB.
SSI ước tính nhu cầu tại các mỏ đá của Tân Cang sẽ tăng 28% so với cùng kỳ nhờ cung cấp cho dự án Sân bay Long Thành, các dự án cơ sở hạ tầng tại Đồng Nai và Đường Vành đai 3. Giá đá xây dựng dự kiến tăng 8% so với cùng kỳ, bù đắp cho giá nhiên liệu và chi phí bảo vệ môi trường cho khai thác mỏ tăng lên. Tỷ suất lợi nhuận gộp tại các mỏ Tân Cang được duy trì trong khoảng 28%-30% (thấp hơn mức trung bình tại các mỏ đá khác như Tân Đông Hiệp và Thạnh Phú lần lượt là 45% và 32%) do chi phí đào/bốc các lớp đất cao (chiều cao lớp đất từ 10-12m).
Tương tự, mỏ đá xây dựng Thạnh Phú là nguồn cung cấp chính cho các công trình tại Tây Nam Bộ. Có 9 mỏ đá ở khu vực Thạnh Phú, bao gồm các công ty niêm yết (CTI, KSB, VLB, DHA và DND). Ước tính nhu cầu tại các mỏ đá Thạnh Phú sẽ tăng từ 15%-16% so với cùng kỳ nhờ cung cấp cho các dự án ở khu vực phía Tây Nam như Cần Thơ - Hậu Giang, đường cao tốc Hậu Giang - Cà Mau. Giá đá xây dựng dự kiến sẽ tăng 7% so với cùng kỳ.
Lợi nhuận của các công ty đá xây dựng dự kiến sẽ ghi nhận tăng trưởng
Trong 9 tháng đầu năm 2022, doanh thu và LNST của ngành đá xây dựng (bao gồm VLB, KSB, NNC, DHA, LBM, C32) lần lượt đạt 3,2 nghìn tỷ đồng (tăng 23,8% so với cùng kỳ) và 312 tỷ đồng (giảm 18,1% so với cùng kỳ). Tăng trưởng doanh thu chủ yếu do nhu cầu phục hồi từ mức nền thấp trong quý 3/2021, do sản lượng tiêu thụ tăng khoảng 9%-18% so với cùng kỳ; và giá bán trung bình tăng 7% so với cùng kỳ.
Trong khi đó, LNST của VLB ghi nhận khoản lỗ 224 tỷ đồng khi công ty phải thanh toán chi phí cấp quyền khai thác giai đoạn 2014-2021 cho các mỏ đá Thạnh Phú 1, Tân Cang 1 và Thiện Tân 2. LNST của KSB trong 9 tháng đầu năm 2022 giảm 21% so với cùng kỳ do ảnh hưởng từ các yếu tố: tỷ suất lợi nhuận gộp giảm xuống 38%, khi diện tích Khu công nghiệp Đất Cuốc có tỷ suất lợi nhuận cao hơn chỉ còn 2ha (giảm 80% so với cùng kỳ); cổ tức từ công ty liên kết giảm 49% so với cùng kỳ; và Chi phí lãi vay tăng 59% so với cùng kỳ.
Lợi nhuận của các công ty đá xây dựng niêm yết dự kiến sẽ ghi nhận tăng trưởng trong năm 2023. SSI dự báo LNST của các công ty niêm yết tăng 16% so với cùng kỳ trong năm 2023. Sản lượng đá dự báo tăng bình quân 15%, giá bán dự kiến tăng khoảng 7%-8% so với cùng kỳ. LNST của KSB, VLB và DHA ước tính lần lượt đạt 208 tỷ đồng (+16% so với cùng kỳ), 165 tỷ đồng (gấp đôi so với cùng kỳ) và 90 tỷ đồng (+25% so với cùng kỳ).
Rủi ro ngành đến từ việc cấp phép cho các mỏ mới kéo dài và chi phí bảo vệ môi trường dự kiến tăng trong năm 2023. Theo Nghị định - quy định chi phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản thay thế Nghị định số 164/2016/NĐ-CP có thể sẽ tăng trong năm 2023. Điều này sẽ làm tăng 50% chi phí đá xây dựng so với quy định hiện hành. Ước tính tỷ suất lợi nhuận gộp sẽ giảm 0,8% từ việc tăng phí này. Yếu tố gây rủi ro nữa là các khoản phải thu của công ty đá xây dựng có khả năng tăng lên khi các dự án thi công không đúng tiến độ.
Trên thị trường chứng khoán, ngành đá xây dựng giảm 44%, giảm mạnh hơn cả chỉ số VN Index (giảm 33%) trong năm 2022. Cổ phiếu có diễn biến khả quan nhất bao gồm NNC (tăng 24%), do CTCP Vật tư và Xây dựng Bình Dương nâng tỷ lệ sở hữu từ 37,7% lên 43,2% và DHA (giảm 28%) chia cổ tức bằng tiền tỷ lệ 30%/cổ phiếu. Cổ phiếu có diễn biến kém khả quan nhất là VLB (giảm 50%) do công ty bị truy thu mức thuế lớn (trong giai đoạn 2014-2019) dẫn đến khoản lỗ lớn vào năm 2022.
P/E và P/B của các công ty đá xây dựng niêm yết lần lượt là 10,5 lần (không bao gồm VLB, do lỗ) và 1,4 lần trong năm 2022 - giảm nhẹ so với mức 10,6 lần và 1,2 lần trong năm 2021 do giá cổ phiếu giảm 33% so với cùng kỳ, trong khi lợi nhuận giảm 18% so với cùng kỳ. Đồng thời, nếu so với giai đoạn 2018-2020 là 6,1-7,4 lần, thì P/E năm 2022 vẫn cao hơn giai đoạn 2018-2020 (LNST của các công ty đá xây dựng tăng trưởng mạnh nhờ chi phí khai thác giảm).
SSI Research đưa DHA vào danh sách cổ phiếu quan sát do có 3 mỏ đá sẵn sàng khai thác tại khu vực phía Nam; Lợi thế chi phí khai thác thấp do các mỏ đã khai thác thời gian dài giúp tỷ suất lợi nhuận gộp trung bình là 39%; Trả cổ tức ổn định và không có nợ vay.
Nguồn: thuongtruong.com.vn